Ơn Cứu-Chuộc và lời cầu Chúa xót thương
Chương Bốn
Cứu-Chuộc nhờ tình Thương-yêu Công-chính
Phần 2:
Ơn Cứu-Chuộc và lời cầu Chúa xót thương
Tham dự Tiệc Thánh, ta thường dâng lên Chúa lời kinh mai như sau:
“Lạy Chúa, xin dủ tình thương xót chúng con,
“Lạy Đức Kitô, xin dủ tình thương xót chúng con.”
Với từ-điển Oxford khổ nhỏ, lòng xót thương đã được định nghĩa, như sau:
“Xót thương là: lòng trắc-ẩn độ-lượng vẫn phú ban cho người không quyền-lực, đặc biệt là những người phạm lỗi, hoặc ai đó, tuy không đòi hỏi nhưng vẫn được đối-xử tử-tế tốt-lành, cả vào trường-hợp có sự cung-kính rất trông mong.”
Vì trông mong, nên người người vẫn tự đặt mình luôn sẵn-sàng hứng-nhận lòng từ-bi, trắc-ẩn từ Đức Chúa với lòng tin-tưởng vượt bực, như kẻ phạm lỗi trước phiên toà xét xử về sự công-bằng nơi nhân-loại. Từ-vựng “Mercy” bên tiếng Anh, xem ra như còn đề-nghị nhiều điều vượt cả sự công-minh/chính-trực, vượt lằn ranh giới-hạn tình xót-thương bình-thường, nữa. Nơi phụng-vụ, ta còn nghe biết lời cầu Chúa xót-thương, như ở câu: “Lạy Thánh-Tâm Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con!” Thương xót đây, mang ý-nghĩa một đợi-trông rất cẩn-trọng. Cẩn-trọng để Chúa xót-thương những người cầu-khấn được miễn-chuẩn, không đòi phải sống tốt đạo/đẹp đời, mới được thế.
Ở Sách-Thánh, từ-vựng “xót thương”, cũng ít thấy. Đúng hơn, ta chỉ thấy sự tin-tưởng trọn-vẹn vào Đức Chúa, là Đấng thương-yêu con người vẫn rất mực. Và, Ngài sẽ còn yêu-thương ta mãi đến muôn thuở, muôn đời. Với Thánh vịnh 25, người cầu-khấn vẫn đưa vào lời kinh đêm, những câu nói thân thương, như sau:
“Lạy Chúa, xin nhớ lại nghĩa nặng với ân sâu
Ngài từng biểu-lộ từ muôn thuở muôn đời.” (Tv 25: 6)
Xem thế thì, đây là chuyện Chúa vẫn gần cận, thân thương với con người. Ngài vẫn tỏ lòng từ-ái thủy-chung với họ từ ngàn đời; và lòng nhân-ái ấy sẽ còn kéo dài mãi đến thiên-thu. Nơi lời kinh đêm hôm trước, người người lại vẫn dâng lên Chúa lời cầu-khấn thân-thương, như sau:
“Tuổi xuân trót dại bao lầm lỗi, xin Ngài đừng nhớ đến,
nhưng xin lấy tình thương mà nhớ đến con cùng” (Tv 25: 7).
Lầm lỡ/trót dại thời son trẻ, thật ra chỉ là đốm sáng hiện trên màn hình của thời bé bỏng đã qua trong dĩ-vãng, không thể nào khiến Chúa bận-tâm chia-trí, hoặc lo ra được. Bởi thế nên, lời kinh hôm nào lại vẫn nhắc:
“Xin Ngài đừng nhớ đến những lỗi/tội con trót phạm,
nhưng hãy lấy tình thương-yêu mà nhớ đến con cùng.”
Tình thương đây, tiếng Do-thái gọi là “hesed”, tức lòng từ-ái, mẫn-cảm kéo dài đến thiên-thu, vạn-đại. Tiếng Aram xưa, gọi đó là “rahamim”. Còn tiếng La-tinh, lại dịch là lòng mẫn-cảm đầy thương-xót. Sách thánh bản Vulgata có chữ “Douai” ý nói lòng trắc-ẩn, độ-lượng. Tiếng Do-thái sử-dụng từ-vựng này ở số nhiều, là do từ thuở ban-sơ thời nguyên-thủy đã có từ-vựng mang nhiều nghĩa, như: tình dịu hiền êm ả, sự tử-tế tốt-lành, lòng mến-thương độ-lượng, nhiều trắc-ẩn. Thế nên, từ-vựng “Mercy” ở tiếng Anh không bao-hàm nhiều nghĩa đến độ thế.
Một số dịch-giả Kinh thánh bản 70, khi xưa cũng tìm cách dịch chữ “oiktimoi” ở tiếng Hy-Lạp cho đúng văn-bản gốc, nhưng bản dịch chính lại ghi là “lòng dạ đầy trắc-ẩn”. Thánh-vịnh lại có câu: “Hãy đem nó vào lòng dạ xót-thương đầy trắc-ẩn”. Tác-giả Tyndale gọi đó là “lòng trắc-ẩn dịu êm”. Còn, thánh Giacôbê khi trước, lại nói đến đặc-tính cảm-thông từ Đức Chúa. Nên hỏi rằng, thật ra thì lời kinh hôm dâng Chúa ở Tiệc Thánh như câu: Kyrie Eleison, Christe Eleison thật ra mang ý-nghĩa gì?
Tình-yêu
Qua kinh-nghiệm chú-giải
của Lm Christian Duquoc, o.p.
Những điều nhắc đến ở trên, có nói về tình thương-yêu cách chung chung, hoặc có bàn về loại-hình mến-mộ Chúa vẫn tỏ-lộ cho con người, chứ? Phải chăng, ta có nói cho nhiều, cũng diễn-tả không đủ tình Chúa thương-yêu con người và sự công-minh Ngài vẫn có, đúng thật là một, ư? Nhưng vấn-đề là hỏi rằng: làm sao lại như thế?
Lm Christian Duquoc o.p. cũng từng đặt câu hỏi: Đức Giêsu là Ai? Ngài thương-yêu con người đến độ nào?
Đức Giêsu xưa vẫn phán: thời buổi đã mãn. Thế nên, ngay từ đầu, Ngài cũng không đặt nặng những gì tuỳ-thuộc vào “thời buổi” theo hướng cơm-áo-gạo-tiền, hoặc theo nghĩa chính-trị và quyền-bính nơi đạo-giáo -như trình-thuật cơn cám-dỗ đầu lúc Chúa khởi sự cuộc sống công-khai đời rao giảng. Buổi đầu đời, Ngài không nhấn mạnh đến những gì khả dĩ khiến ta làm lại cuộc sống; hoặc: cải-thiện lịch-sử cách triệt-để, nào hết. Ngài cũng chẳng nối-kết với bất cứ đường-lối diễn-giải lịch-sử nào hết. Giả như ta nhận ra những điều như thế về Đức Giêsu, hẳn ta cũng không còn cách nào sử-dụng viễn-ảnh lịch-sử như đường lối chính-thức để hiểu rõ Ngài. Ta cũng chẳng tài nào hiểu được ý-nghĩa của sự việc giải-phóng hoặc chính đạo-giáo nữa. Điều này có ý bảo: Đức Giêsu đã tách rời khỏi mọi thứ đạo-giáo, hoặc theo cung-cách lịch-sử từng nhận-thức và thực-hiện, cho đến nay. Các phòng-trào này/khác ở lịch-sử hoặc đạo-giáo, vẫn chỉ tương-đối, thôi. Tương-đối, cả về thành-quả lẫn thất bại. Thiên-Chúa là Đấng siêu-việt, Ngài khác hẳn mọi thứ như thế. Do khác biệt, nên Ngài có khả-năng ở với nhân-loại cả vào lúc con người thành-công lẫn thất-bại. Mà, Ngài cũng chẳng cần dựa vào thành-quả hoặc thất-bại để đánh-giá con người. Ngài ở với con người, cả trong bản-chất rất thường tình của họ, chẳng cần họ thành-công hay thất-bại.
Đức Giêsu lâu nay sống-thực bằng nhận-thức rằng: tất cả những gì diễn-tiến trong lịch-sử và cuộc sống con người, và Ngài coi đó như những “mảnh vụn nhỏ”, tức một thứ gì đó không hoàn-tất. Ta nói thế, vì con người không biết đó là thứ gì, bởi ta không thấy và cũng chẳng nắm bắt được phần tổng-thể của những thứ như thế. Trong khi đó, Chúa lại trực-tiếp có cảm-quan về một Thiên-Chúa rất khác-biệt. Ngài có trực-cảm là ta phải làm sao để các mảnh vụn vẫn cứ là mảnh vụn. Ta không có khả năng tạo quan-niệm hoặc hoàn-tất “tổng-thể” ấy hầu để nó ăn khớp với những mảnh vụn như thế; và làm như thế mới tạo được ý-nghĩa cho mọi sự. Ta phải sống sao không cần đến những đó. Và, ta còn phải từ-bỏ lối sống kết-tụ không-tưởng đầy ngẫu-hứng giống như thế.
Đức Giêsu, thật ra, Ngài không muốn áp-đặt bất cứ hình-thức xã-hội hoặc mẫu-mực nào về chính-trị, đạo-giáo hoặc loại hình biến-đổi thiên-nhiên, hết. Bởi làm như thế, tức là ta đã chống lại nhận-thức về “mảnh vụn”.
Đức Giêsu từng học hỏi kinh-nghiệm sống tình-yêu bí-nhiệm ở trong và về các “mảnh vụn” thấp-hèn và thô-thiển, vốn dĩ không thể trở thành tổng-thể hoặc thành-phần tổng-thể ấy. Đó chính là “tình yêu” đơn thuần, bởi chỉ có tình-yêu mới tôn-trọng bản-chất đích-thực của “mảnh vụn nhỏ”. Đây, rõ ràng là sự độ-lượng nơi Tình Chúa thương-yêu ta.
Hồng-phúc an-lạc, diễn-tả uy-lực biến-đổi đang gần cận bên ta –nơi thế-giới gồm những “mảnh vụn nhỏ” có sự độ-lượng được kề-cận Chúa- vốn dĩ gắn liền vào sự thấp-hèn và thô-thiển. Lịch-sử cần gần-cận, chứ thật ra không là diễn-giải, phát xuất từ điểm tới của những yếu kém này.
Chính các “nơi” này, đích-thực là nơi dấy lên một sự sống vượt khỏi mọi khinh-miệt và bao-lực từ hệ-thống quyền-lực. Chính bằng việc tham-gia vào sự thể như thế, nên các cộng-đoàn tín-hữu của Chúa Kitô có thể gia-nhập Vương-Quốc Nước Trời như Lời Ngài diễn-tả ở Tin Mừng hoặc gia-nhập vào công-cuộc Tạo-dựng mới, như thánh Phaolô từng xác-quyết.
Là tín-hữu Đức Kitô, không có nghĩa là sống thụ-động, mà là khẳng-định một cách chủ-động niềm tin của mình rằng mỗi biến-cố lịch-sử đã trở thành thời-điểm cho niềm hy-vọng có sự hiện-diện của Chúa ở trong và ở với những gì là thô-thiển, thấp hèn. Theo nghĩa Chúa diễn-tả, thì những gì cần được bênh-vực/biện hộ không là lối ra từ thế-giới có nền lịch-sử và chính-trị thực-thụ, mà là sự gián-đoạn khỏi tầm nhìn của chính nó.
Ơn Cứu-Chuộc thành-toàn không phải chỉ nhờ duy có sự Thương khó mà thôi –mà sự Thương-khó của Đức Giêsu là thành-phần phải có trong điều-kiện thống-khổ của nhân-loại- và ngang qua lịch-sử cũng như tất cả những thứ đó có tác-dụng cứu-chuộc con người. Tác-giả Duquoc rất thích cái tiêu-đề do ông chọn khi viết về Ơn Cứu-Chuộc, bởi nó đem lại cho toàn thể lịch-sử cái-gọi-là “Bản Giao-hưởng được diễn tả cách chầm chậm”.
Chú-thích quan trọng:
Tôi vẫn nghĩ: ý-niệm về những “mảnh vụn nhỏ” nói ở trên chợt đến từ triết-học lãng-mạn. Từ cội nguồn, ý-niệm này được sử-dụng theo nghĩa của “Ánh lửa thần-thánh”, sau đó đã trải dài cách rộng rãi. Thoạt đầu, ý-niệm này được bắt gặp từ tư-tưởng đặc-biệt của Kierkegaard, sau đó có Nietzsche và đến thời Simone Weil nó càng hiện rõ hơn chí ít với lập-trường/quan-điểm của Walter Benjamin, nữa. Tác giả Benjamin đây lại cũng nói rằng các “mảnh vụn” lại đã “bão hoà” và “rực sáng” là yếu tố đảm-trách sự vô cùng/vô tận; và niềm hy-vọng thần-thánh về một cứu-chuộc không được “xác-định cho rõ”. Ở đây, tôi thấy có sự kết-nối tư-tưởng với tác giả T.S.Eliot, với Joyce, Kafka, vv...
Phần phụ thêm:
Năm 1999, Lm. Christian Duquoc, o.p. cũng viết một cuốn sách khác có đề-tựa: “Je crois en l’Eglse. Précarie institutionelle de Dieu, Paris, Cerf.
Ở đây nữa, tác-giả vẫn nhấn mạnh lên một điều là: tất cả mọi cơ sở -bất kể họ có tìm cách thực-hiện mọi sự việc tích-cực hay không- đều ra điêu-đứng/khổ sở về hoạt-động khác-thường của các thể-chế, vì họ cố duy-trì tính chính-thống của riêng mình. Điều này được lối biện-luận về chính-kiến mà ta gọi là thần-học, vẫn quan-tâm chứ? Tuy nhiên, sự việc tỏ cho ta thấy Thiên-Chúa hiện-diện ở thế-giới là do Ngài tự quyết-định như thế, và qua đó Ngài xoá bỏ chính mình Ngài nên như vậy. Thể-chế Giáo-hội lại cứ tuyên-bố: mình là chứng-nhân của một Thiên-Chúa như thế. Đúng ra, chỉ có Lời Chúa rất khác-biệt và không tinh-giản được, mới là nguồn-gốc và bảo-chứng cho việc thực sự mở lòng mình ra để trở thành quà-tặng của Thánh Thần Chúa, thôi. Chuyện đạo-đức, nơi Đạo Chúa, không có gì là lạ-lùng hết, nhưng không là trọng-tâm cho các sự-thể ra như thế.
Đức Bênêđíchtô 16
và tông thư Thiên-Chúa-là-Tình-Yêu
Lâu nay, nhiều người vẫn cố xác-định xem ý-nghĩa xác-thực của ngôn-từ khi định-nghĩa Tình Thương-yêu, như từ-vựng: đức mến thương, tình bằng-hữu, ái-tình, lòng bác-ái, vv.. Thánh Kinh, thường tập-trung vào lời kinh Shema ở sách luật Torah Do-thái trong đó ghi rõ giới-lệnh đầu: “Người phải yêu thương Đức Chúa...” và ở thư thứ nhất chương 13 thánh Phaolô gửi tín-hữu thành Côrintô cũng như thư thứ nhất thánh-sử Gioan đều đề-cập đến Tình-Yêu, như thế.
Qua tông-thư này, Đức Bênêđíchtô 16 bàn về sự khác-biệt từ ngàn xưa giữa từ-vựng Hy-Lạp Eros (Ái-tình) và Agapè (lòng mến-mộ). Eros, là thứ Ái-tình thấy rõ nơi tình yêu-thương nam-nữ đầy dục-tính, cứ vươn cao vươn cao mãi để đạt toại-nguyện cho bằng được. Trong khi đó, Agapè lại trầm xuống, quyết ra ngoài để đến với mọi người, cũng tựa như sự tách-bạch giữa tình-yêu đầy chiếm-hữu với tình thương-yêu mang tính dâng hiến. Từ-vựng Eros, tập-trung vào chính con người mình, còn Agapè lại là thứ tình mến-mộ hướng về người khác, tức tha-nhân. Agapè có đặc-điểm không đòi điều-kiện, là thứ tình thiêng-liêng, vô kỷ.
Đức Bênêđíchtô 16 khẳng-định rằng: bao lâu Eros và Agapè còn kiếm-tìm sự kết-hợp đúng cách nơi thực-thể là tình-yêu đích-thực, thì khi đó bản-chất thực-thụ của tình-yêu mới thành hiện-thực. Các tầm-kích này đều thẩm-nhập vào nhau. Tình-yêu là thực-tại đơn-thuần gồm cả hai tầm-kích như thế.
Agapè tiếng Hy-Lạp, tương đương với từ-vựng “Ahaba” tiếng Do-thái, cả hai đều có nghĩa như một khám-phá thực-thụ về phía bên kia, biết quan-tâm chăm sóc lẫn nhau, vẫn kiếm-tìm sự tốt lành của phía bên kia, tức: của người mình yêu mến. Đó là nhận-định, không theo nghĩa cảm-giác mãnh-liệt, nhưng theo nghĩa cứ xuất-hành về phiá trước mà cho đi và cho mãi để đến với người khác. Chúa thương-yêu chúng ta, là Ngài thương và yêu cùng một kiểu, rất tương-tự. Ở đây, ta lại nhớ về sự-kiện khi xưa triết-gia Aristotle không bao giờ nghĩ là: động-lực ban đầu hoặc nguyên-nhân tiên-quyết dẫn đến việc yêu-thương ta. Người Do-thái dư biết Chúa thương-yêu ta bằng tình-yêu rất “con người”. Ngài thương-yêu ta rất mực, nên Tình-yêu của Ngài còn được gọi là Eros và tình-yêu Ngài hoàn toàn mang tính-chất rất Agapè, nữa. Chúa có mối tình rất nồng-nàn với con dân Ngài. Tình Eros của Chúa đối với con người hoàn-toàn là Agapè. Chúa là người yêu vẫn có nơi Ngài trọn vẹn sự đam-mê của tình-yêu rất thực.
Với tôi, nói thế như thể bảo rằng: việc tháp-nhập tình-yêu đầy tính-chất đam-mê vẫn đi vào tình mến-mộ Agapè của Thiên-Chúa, ít ra là đã cho ta thấy sự công-minh/chính-trực được tháp-ghép vào tình yêu-thương thần-thánh của Thiên-Chúa.
----------------
(còn tiếp)
____________________
Lm Kevin O’Shea, CSsR
Mai Tá lược dịch
Thánh Lễ Khấn Dòng 17/06/2022
Hòa với ánh nắng ban mai ngày mới, Hội dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn hòa chung tâm tình tri ân, cảm tạ tình thương của Thiên Chúa ban xuống trên Hội dòng.
Chi tiết...Hân Hoan Kính Báo

Trong niềm tri ân Thiên Chúa, Hội Dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn hân hoan kính báo
Chi tiết...TĨNH TÂM ĐỢT I NĂM 2022

Chiều 14h ngày 25/04 Chị em bước vào tuần Tĩnh tâm đợt I, dưới sự hướng dẫn của Cha Phêrô Trần Văn Thơ, Tỉnh Dòng Đa Minh Việt Nam.
Chi tiết...CÁO PHÓ NỮ TU MARIA THẠCH...

Trong niềm tin vào Chúa Giêsu Tử Nạn và Phục Sinh Hội Dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn chúng con và gia đình trân trọng kính báo:
Chi tiết...CÁO PHÓ NỮ TU ANNA NGUYỄN...

Trong niềm tin vào Chúa Giêsu Tử Nạn và Phục Sinh Chị em Hội Dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn và gia đình trân trọng kính báo:
Chi tiết...PHAOLÔ và giòng chảy tâm...

Tin tức từ Châu Âu cho thấy châu này ngày càng tốt đẹp...
Chi tiết...PHAOLO và giòng chảy tâm...

Tác giả Crossan xem ra những muốn đặt thánh Phaolô ở vào tư thế...
Chi tiết...PHAOLÔ và giòng chảy tâm...

Giòng chảy tâm tư diễn giải về thánh Phaolô luôn còn đó ở nơi ta...
Chi tiết...PHAOLÔ và các thư...

Đây là thư ngắn gọn, không mấy tình tiết nhưng vẫn có thể do thánh Phaolô viết...
Chi tiết...PHAOLÔ và sự nghiệp cầm...

“Trở nên công chính”, là: mọi người được tham gia vào sự công bằng thủy chung của Thiên Chúa...
Chi tiết...Lượt truy cập